Căn cứ Điều 355 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định như sau:
“Điều 355. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 352 của Bộ luật này.”
Quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Thời hạn là một khoảng thời gian, có điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Ngày đầu tiên của thời hạn được gọi là ngày “được xác định” hay gọi theo cách khác là điểm “mốc” thời gian để xác định thời hạn. Thời điểm kết thúc thời hạn là thời điểm kết thúc của ngày cuối cùng của thời hạn (24 giờ).
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.
Để sớm sửa chữa được những thiếu sót của Tòa án trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải sớm kháng nghị khi phát hiện được căn cứ kháng nghị. Vậy “căn cứ kháng nghị” là gì? Những dấu hiệu để xác định đó là căn cứ kháng nghị? Thì ở đây “căn cứ kháng nghị” được hiểu là những cơ sở, căn cứ chứng minh cho kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là có căn cứ theo quy định mà pháp luật đã quy định. Dấu hiệu để xác định căn cứ theo thủ tục tái thẩm được quy định cụ thể tại Điều 352 BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
– Thứ nhất, mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án là trường hợp tình tiết có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn vụ án tồn tại khách quan trong quá trình giải quyết vụ án nhưng đương sự không biết hoặc không thể biết trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể:
+ Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án mà Tòa án và đương sự đã không thể biết được. Những tình tiết mới phát sinh sau khi Tòa án đã giải quyết vụ án thì không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Tình tiết mới được phát hiện phải là những tình tiết quan trọng liên quan đến vụ án,làm thay đổi hẳn nội dung vụ án, làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không hợp pháp không có căn cứ. Đối với những tình tiết tuy mới được phát hiện nhưng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự, không có mối quan hệ nhân quả đối với quyết định của Tòa án tái thẩm thì cũng không là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Những tình tiết mới được phát hiện làm căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm phải là những tình tiết Tòa án muốn xác định được phải qua quá trình xem xét lại. Những tình tiết đã có sẵn trong hồ sơ vụ án. Tòa án không đánh giá sử dụng hoặc những tình tiết đa có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án nhưng do sai lầm của Tòa án không phát hiện được, không yêu cầu đương sự cung cấp thì không được coi là tình tiết mới.
Ví dụ : Trong vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản, các đương sự có yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật vì lý do người để lại di sản thừa kế không có di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã giải quyết chia thừa kế theo pháp luật. Sau khi có bản án phúc thẩm, một trong số các đồng thừa kế mới phát hiện được di chúc của người để lại di sản định đoạt toàn bộ di sản cho họ nên đã có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục tái thẩm. Trường hợp xác định bản di chúc đó là hợp pháp thì người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ quy định này để kháng nghị tái thẩm.
– Thứ hai, có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ là trường hợp người giám định đưa ra kết luận giám định không trung thực, không có căn cứ, không phản ánh đúng sự thật khách quan của đối tượng giám định; người phiên dịch đưa ra lời dịch không trung thực, không khách quan, không đúng nghĩa; tài liệu, chứng cứ mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án bị giả mạo.
+ Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của BLTTDS 2015.
+ Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được một bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên dịch.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản, bà A (bị đơn) cho rằng mình không vay tiền của bà B (nguyên đơn), không thừa nhận chữ ký trong hợp đồng vay tài sản do bà B xuất trình là của mình nên bà B yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký đứng tên bà A trong hợp đồng vay tài sản. Mặc dù có đủ cơ sở khẳng định chữ ký đứng tên bà A trong hợp đồng vay tài sản (mẫu vật giám định) và chữ ký của bà A trong các mẫu so sánh là do cùng một người ký ra, nhưng người giám định lại đưa ra kết luận giám định là chữ ký tên bà A trong hợp đồng vay tài sản và chữ ký của bà A trong các mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào kết luận giám định để bác yêu cầu khởi kiện của bà B. Sau khi có bản án phúc thẩm, tổ chức giám định tư pháp nơi người giám định làm việc phát hiện người giám định đã đưa ra kết luận giám định sai sự thật nên đã có văn bản thông báo, kèm theo tài liệu, chứng cứ về việc giám định sai sự thật của người giám định cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
– Thứ ba, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật là trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm cho nội dung của hồ sơ sau khi làm sai lệch không còn phù hợp với nội dung hồ sơ ban đầu; các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án đã rõ ràng nhưng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vẫn cố ý đưa ra kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
– Thứ tư, Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Như vậy, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm kể từ ngày phát hiện được tình tiết được coi là căn cứ cho việc kháng nghị.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm:
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Luật Hoàng Anh